Ẩm thực Đan Mạch
Nhắc đến ẩm thực Âu, chúng ta thường hay nghĩ về những món ăn của Pháp, Ý, Anh, Mỹ hay các loại rượu, bia trứ danh của Đức. Thực chất ẩm thực Đan Mạch cũng được biết đến nhiều thông qua những món ăn nổi tiếng châu Âu và thế giới, sở hữu nhiều nhà hàng đạt sao đánh giá ẩm thực Michelin. Có thể nói, ẩm thực Đan Mạch rất có danh tiếng ở vùng Bắc Âu và đã đóng góp một mảng màu sắc thú vị vào bức tranh chung của ẩm thực phương Tây. Tuy không quá cầu kì và sang trọng như Pháp,cũng chưa được phổ biến rộng rãi khắp thế giới với những món ăn “kinh điển” như của Anh hay Mỹ. Song, hương vị khó quên của những món ăn Đan Mạch sẽ khiến người ta phải nhớ mãi không quên.
Ẩm thực Đan Mạch (tiếng Đan Mạch: det Danske køkken), bắt nguồn từ các nông sản của cư dân địa phương, được chế biến bằng các kỹ thuật phát triển vào cuối thế kỷ 19 và các hàng hoá có nhiều hơn sau cuộc cách mạng công nghiệp. Bánh mì kẹp hở, được gọi là smørrebrød, trong hình thức cơ bản của món này là thức ăn thông thường cho bữa ăn trưa, có thể được coi là một đặc sản quốc gia (món ăn quốc gia) khi được chế biến và bài biện với một loạt các thành phần tốt. Các món ăn nóng sốt được chế biến từ các loại thịt xay truyền thống, như thịt viên chiên frikadeller (thịt viên) và medisterpølse, hoặc những món có nhiều thịt và cá: như flæskesteg (thịt lợn quay với tóp mỡ) hoặc kogt torsk (cá tuyết luộc) với nước sốt mù tạt và rau thơm. Đan Mạch được biết đến với món bia Carlsberg và bia Tuborg và nổi tiếng với các loại rượu akvavit và bitters, nhưng đối với người Đan Mạch thì rượu vang nhập khẩu đã trở thành thức uống phổ biến từ những năm 1960.
Phong các nấu ăn ở Đan Mạch đã luôn luôn được lấy cảm hứng từ cách chế biến lục địa châu Âu và của nước ngoài.Ngoài ra, để làm mới và tăng màu sắc hấp dẫn cho món ăn, các đầu bếp cũng đã nhập các loại gia vị nhiệt đới như quế, bạch đậu khấu, hạt nhục đậu khấu hay hạt tiêu đen áp dụng vào chế biến.
Lịch sử phát triển ẩm thực Đan Mạch
Ẩm thực Đan Mạch đã có nguồn gốc từ thời trung cổ và ngay cả từ thời của những người Viking cổ xưa tuy thô sơ và sơ khai.
Thời Trung cố cách nấu ăn của người Đan Mạch bắt nguồn từ các món ăn của nông dân được phục vụ trên khắp đất nước trước cuộc Cách mạng Công nghiệp năm 1860. Nó dựa trên nhu cầu tận dụng các sản phẩm tự nhiên có sẵn trong hoặc gần trang trại của gia đình. Kết quả là, nhiều loại khoai tây, bánh mì, cá, thịt lợn và sau đó là khoai tây, đã được ăn khắp nơi. Các gia đình đã có kho dự trữ riêng của họ các sản phẩm khô lâu năm, lúa mạch đen để làm bánh mì, lúa mạch để làm bia, đậu Hà Lan khô để nấu súp và thịt lợn hun khói hoặc muối. Quá trình công nghiệp hóa làm tăng lượng tiêu thụ thịt tươi và rau quả, nhưng bánh mì lúa mạch đen và khoai tây vẫn tiếp tục là những mặt hàng chủ lực. Với sự xuất hiện của các hợp tác xã sữa vào nửa sau thế kỷ 19, sữa cũng được ưa chuộng, mặc dù tất cả các loại sản phẩm từ sữa đã được tiêu thụ với số lượng ít hơn trong nhiều thiên niên kỷ. Sự ra đời của bếp đốt củi và máy xay thịt đã góp phần tạo ra một loạt các món ăn mới bao gồm frikadeller (thịt viên), medisterpølse (xúc xích thịt xay chiên), hakkebøf (chả thịt bò), karbonader (chả thịt lợn tẩm bột) , ổ bánh mì thịt, thịt lợn quay, cá tuyết luộc và stegt rødspætte (cá dẹt tẩm bột). Các món tráng miệng với trái cây hoặc quả mọng hầm như rødgrød có cùng thời kỳ, cũng như nhiều loại bánh ngọt và bánh quy.
Qua nhiều thế kỷ, xúc xích không chỉ tiết kiệm mà còn có thể giữ cho nguyên liệu thịt được lâu, cùng với bánh mì lúa mạch đen đã tạo nên sự phát triển của smørrebrød. Vào cuối thế kỷ 18, có nhiều loại xúc xích khác nhau nhưng việc chế biến các sản phẩm thịt nguội đã phát triển nhanh chóng vào những năm 1840 khi người bán thịt người Pháp Francois Louis Beauvais mở một cơ sở kinh doanh ở Copenhagen. Vào những năm 1880, Oskar Davidsen mở một nhà hàng chuyên về món smørrebrød với một danh sách dài các món bánh mì mở. Leverpostej (patê gan) đã có mặt trong các cửa hàng tạp hóa vào cuối thế kỷ 19 nhưng phải mất một thời gian trước khi giá của nó có thể so sánh được với giá của thịt nguội. Cùng lúc đó, thời gian nghỉ trưa kéo dài một giờ cho phép mọi người thưởng thức bữa ăn trưa nóng hổi được rút ngắn xuống còn 30 phút, khuyến khích họ lấy một vài miếng smørrebrød để làm việc trong hộp cơm trưa. Trong những năm 1920 và 1930, cà chua và dưa chuột đã được thêm vào như một phần trên của thịt nguội. Vào những năm 1940, Henry Stryhn đã phổ biến leverpostej bằng cách giao hàng quanh Copenhagen bằng xe đạp của mình.
Trong những năm 1960 và 1970, với sự sẵn có của hàng đông lạnh sâu, khái niệm thức ăn nhanh xuất hiện cùng với sự quan tâm đến các món ăn Địa Trung Hải khi người Đan Mạch đi du lịch rộng rãi hơn. Đến những năm 1990, các nguyên liệu đã được nhập khẩu từ miền Nam trong khi các sản phẩm mới được nuôi tại nhà, tạo cơ sở cho sự quan tâm ngày càng tăng đối với các món ăn ngon. Phần lớn nguồn cảm hứng đến từ Pháp, khi các đầu bếp Đan Mạch lên truyền hình giải thích cách chế biến các món ăn như canard à l'orange hoặc sốt chính thống Béarnaise. Một thế hệ đầu bếp trẻ đã sớm bắt đầu tự mình đi du lịch nước ngoài, học cách điều chỉnh chuyên môn của các đầu bếp Pháp và Tây Ban Nha vào việc sử dụng các nguyên liệu địa phương làm cơ sở để tạo ra các món ăn Bắc Âu được trình bày đẹp mắt và tinh tế. Kết quả là trong những năm gần đây, các đầu bếp Đan Mạch đã giúp đưa Đan Mạch lên bản đồ ẩm thực thế giới, với một số nhà hàng được trao sao Michelin ở Copenhagen và các tỉnh.
Ẩm thực Đan Mạch hiện đại
Ẩm thực Đan Mạch vốn có lợi thế từ các công thức truyền thống sẵn có, thêm vào phát triển việc sử dụng các sản phẩm nghiên cứu lại và chế biến theo cách mới tại cả nhà hàng địa phương và kỹ thuật mà chưa được sử dụng triệt để. Các nguyên liệu thực phầm như cải dầu, yến mạch, phô mai và các loại quả được nghiên cứu lại và chế biến món ăn theo phong cách và cách nấu nướng mới bởi cả nhà hàng và tại nhà do nhu cầu thực phẩm hữu cơ ngày càng tăng lên.
Từ năm 2000 thời kỳ bắt đầu của thế kỷ 21,ẩm thực Đan Mạch Mới là một thành phần của Ẩm thực Bắc Âu Mới (tiếng Đan Mạch: Det nye nordiske køkken) đã được phát triển ở các nước Bắc Âu và Scandinavia nói riêng từ những năm 2000 với Đan Mạch là trung tâm của phong trào.
New Nordic Cuisine đã được thúc đẩy và lấy nguồn cảm hứng trong các ý tưởng và tuyên ngôn được viết bởi nhà hoạt động ẩm thực và doanh nhân Claus Meyer và một số đầu bếp Scandinavia vào năm 2004 tại Copenhagen. Ẩm thực Bắc Âu mới đã được sử dụng để quảng bá các sản phẩm địa phương, tự nhiên và theo mùa làm cơ sở cho các món ăn mới cả trong nhà hàng và gia đình.
Các đầu bếp Đan Mạch, lấy cảm hứng từ thực tiễn lục địa Châu Âu trong những năm gần đây đã phát triển hàng loạt các món ăn sáng tạo tinh tế dựa trên sản phẩm địa phương chất lượng cao được biết đến như các món ăn mới của Đan Mạch. Kết quả là, Copenhagen và các tỉnh hiện nay có một số nhà hàng rất nổi tiếng, trong đó có một số nhà hàng đã được trao tặng giải ngôi sao Michelin.
Hiện nay Đan Mạch khuyến khích việc sử dụng các sản phẩm tự nhiên từ các nước Bắc Âu trong ngành sản xuất thực phẩm, đồng thời thúc đẩy "sự tinh khiết, tươi mới, đơn giản và đạo đức" liên quan đến ẩm thực của vùng Scandinavia.
Nguyên liệu thực phẩm và món ăn tiêu biểu Đan Mạch
Đan Mạch khá nổi tiếng với các loại ngũ cốc hoặc các loại đồ ăn, thức uống được làm từ sữa. Chẳng hạn như corn flakes (cốm bắp), muesli (ngũ cốc hổ hợp khô từ yến mạch, quả hạch, hạt và bột mì), ymer (bánh mì đen nạo và đường nâu được làm chua). Bắp cải, rau củ, thịt, cá là nguyên liệu chính của ẩm thực Đan Mạch.
Nếu nói đâu là “quốc hồn quốc túy” trong ẩm thực của nước bạn, chắc có lẽ người Đan Mạch chẳng ngại ngùng mà đáp: là smørrebrød, cá trích và bia.
Cá trích được chế biến nhiều ở Bắc Âu, nhưng “ngon lành” và nổi tiếng nhất phải kể đến là ở Đan Mạch. Là cơ sở đánh bắt và chế biến cá trích hàng đầu châu Âu, các đầu bếp Đan Mạch rất biết cách tận dụng đặc sản địa phương để làm thành những món cá trích tuyệt ngon như cá hun khói, cá ướp cà ri kẹp bánh mì hoặc ướp cùng với nước xốt rau mùi, ăn kèm với khoai tây. Cá trích đôi khi được chế biến sống cùng với trứng cá tương tự như sushi của Nhật Bản.
Bia gắn với lịch sử hình thành 5.000 năm của Đan Mạch và bạn sẽ ngạc nhiên khi biết đất nước này có đến khoảng 100 hãng bia lớn nhỏ khác nhau. Người ta uống khi vui, uống khi buồn, uống khi hội họp, uống khi dùng bữa, uống chỉ để giải khát. Bia trở thành một nét văn hóa của người dân như cái cách mà soju hay rượu sake đã “ngự trị” trong ẩm thực của Hàn Quốc và Nhật Bản tại châu Á.
Smørrebrød món ăn từ loại bánh mì được làm từ lúa mạch mềm dai, thơm dịu nhẹ được đặt và phủ lên trên thật nhiều nguyên liệu hấp dẫn khiến thực khách khó lòng rời mắt hay cưỡng lại cái sự đói của mình. Có 1001 kiểu biến hình của smorrebord bởi chỉ cần thay đổi một nguyên liệu cũng có thể cho ra một món mới. Khi thì hịt heo đút lò với lớp da giòn rụm, thịt ngọt và béo tương tự như heo quay. Khi thì cá trích ướp cùng trứng cá. Khi thì tôm đỏ hấp bơ thơm phức, phủ thêm một lớp mayyonaise béo ngậy cùng chút chanh chua chua. Có lúc lại đơn giản chỉ gồm bánh mì với chút jambong mằn mặn. Có lúc lại cầu kì khi có sự kết hợp của bơ, thịt cùng một lớp thạch từ gan vịt và mỡ vịt.
Khắp những con đường đầy màu sắc của Đan Mạch, từ những thương gia giàu có đến nhân viên văn phòng, những cô cậu sinh viên, những bà nội trợ tranh thủ ghé vào một tiệm bánh… không khó để bắt gặp người Đan Mạch thong thả dùng những miếng smørrebrød ngon thật ngon bên một tách trà hoặc ly bia, ly nước ép của mình.
Thói quan và phong cách ăn uống người Đan Mạch
Về cơn bản, bữa ăn trong ngày của người Đan Mạch khá đơn giản. Bánh mì đen cùng một ít cà phê hoặc sữa yến mạch thanh đạm cho buổi sáng nhiều năng lượng, một ít đồ ăn làm sẵn hoặc đóng hộp cho bữa trưa và đặc biệt dù có bận rộn đến đâu, mọi người cũng sẽ cùng nhau quây quần thưởng thức bữa tối tại nhà hoặc tại nhà hàng. Bữa tối đôi khi không cầu kì, chỉ gồm một món chính như cá, thịt viên hay gà, thịt bò…
Hầu hết người Đan Mạch có ba bữa ăn đều đặn mỗi ngày, thường bao gồm bữa sáng nguội với cà phê hoặc trà, bữa trưa nguội tại nơi làm việc và bữa tối nóng hổi ở nhà với gia đình. Một số cũng ăn nhẹ vào giữa buổi chiều hoặc vào tối muộn. Cho đến nay, thịt, đặc biệt là thịt lợn, là nguyên liệu phổ biến nhất trong các bữa ăn nóng. Nó thường được đi kèm với khoai tây và đôi khi là một loại rau khác như cà rốt hoặc rau diếp. Hầu hết các bữa ăn nóng chỉ bao gồm một món: món khai vị khá hiếm nhưng món tráng miệng như kem hoặc trái cây thì thường xuyên hơn một chút. Bia và rượu là những thức uống khá phổ biến trong bữa ăn nhưng nước ngọt, nước lọc và ở mức độ thấp hơn là sữa và cà phê. [13] Nhiều gia đình theo truyền thống cũ. Các ông bố bà mẹ nấu ăn cùng nhau và dạy con cái họ cách nấu ăn. Bữa ăn là một phần quan trọng của cuộc sống gia đình, cho phép xã hội hóa và đóng góp vào cảm giác hạnh phúc và ấm cúng được gọi là hygge.
Bữa sáng
Bữa sáng cơ bản của Đan Mạch bao gồm cà phê và bánh mì đen, bánh mì trắng, với pho mát và giăm bông. Bánh mì vào bữa sáng hầu hết dưới dạng một cổ bánh mì trắng được gọi là franskbrød (bánh mì Pháp), bánh mì Pháp, hoặc một loại bánh trắng hoặc nâu (boller, birkes, rundstykker, håndværkere) hoặc bánh sừng bò. Bánh mì thường được phết bơ và phổ với pho mát mềm, xúc xích, pâté, thịt hun khói lạnh hoặc giăm bông. Trong những ngày tụ tập lễ hội hoặc có nhiều thời gian, ví dụ như ngày chủ nhật, có thể có một loại bánh gọi là wienerbrød, hay pastry Đan Mạch. Nước ép hoa quả, chủ yếu là cam hoặc táo, và đôi khi đắng hơn như Gammel Dansk, có thể được phục vụ cho khách hoặc trong các dịp đặc biệt và lễ kỷ niệm như sinh nhật.Trong các khách sạn tại Đan Mạch, trứng lòng đào và thịt nguội cũng được phục vụ làm bữa sáng.
Vào ngày trong tuần, nhiều loại ngũ cốc như corn flakes, muesli hoặc rolled oats thường được dùng làm bữa sáng với sữa lạnh và đường. Các sản phẩm sữa được làm chua cũng phổ biến và được dùng với ngũ cốc hoặc hoa quả. Sản phẩm sữa làm chua điển hình là ymer được phủ với ymerdrys, một hỗn hợt bánh mì đen nạo và đường nâu. Cháo yến mạch và một loại cháo truyền thống được gọi là Øllebrød cũng phổ biến trong những ngày làm việc. Øllebrød là một loại cháo nấu với một chút bánh mì đen, hvidtøl, nước, đường và dùng với sữa hoặc đôi khi là kem đánh (whipped cream), món này dần phổ biến hơn như có thể thấy trong thực đơn bữa sáng tại các quán cà phê.
Bữa ăn trưa
Thay vì ăn tại nhà, hầu hết người Đan Mạch ăn bữa trưa nhanh tại nơi làm hoặc trường học tại quán ăn tự phục vụ nếu hoặc thường là một bữa trưa đóng hộp hay madpakke được chế biến trước khi họ rời nhà. Bữa trưa thường là một bữa lạnh bao gồm một vài miếng smørrebrød đơn giản với vài lát thịt nguội, xúc xích thái hoặc trứng luộc chín. Leverpostej, một loại pâté gan chế biến từ gan và mỡ lợn, thường được dùng để phết.
Bữa ăn tối
Đối với các gia đình trung lưu, bữa tối là bữa ăn trong ngày mà tất cả các thành viên trong gia đình có thể tụ tập, do áp lực của cuộc sống cả cha mẹ đều phải đi làm, con cái phải đến trường. Bữa tối thường bao gồm chỉ một món chính, thường là một món thịt với khoai tây và một loại rau hoặc salad. Món khai vị ít khi được dùng tại nhà. Nếu có món tráng miệng, nó thườn là kem hoặc một món hoa quả. Bữa tối công phu hơn được dùng vào bữa tối, các dịp đặc biệt hoặc khi nhà có khách.
Sự đa dạng của bữa tối đã được phát triển là kết quả của số lượng thực phẩm trong siêu thị tăng lên cũng như sự phát triển của ngành công nghiệp thực phẩm quốc gia. Do ảnh hưởng từ Mỹ, sự yêu thích nướng ngoài trời, buffet salad và các món ăn sẵn ngày càng tăng. Các món Ý bao gồm pizza và pasta cũng trở nên phổ biến hơn. Thịt ngày càng phổ biến, thịt lợn vẫn là một được dùng nhiều nhất. Thịt thường được chế biến trên chảo rán dùng với nước sốt và khoai tây.