1 2 3 4 5 6 7

Bánh trái - Đồ ngọt

Đồ ngọt là các món ăn ngoài các món ăn không phải là món ăn nấu nướng với thịt các, rau củ quả.

Trong cả các nền ẩm thực của thế giới; từ đông sang tây, của Âu, của Á và của những tín ngưỡng tôn giáo khác nhau có ảnh hưởng lớn đến bữa ăn, cách nấu nướng của người dân. Tất cả đều có điểm chung là họ đều có những món bánh trái, đồ ngọt và những lúc ăn những thức ăn ngoài bữa ăn chính thường là ba buổi trong ngày. Những đợt ăn ngoài bữa ăn và các món ăn chính trong bữa ăn này tùy văn hóa ẩm thực có thể là ăn tráng miệng, ăn món khai vị hay chỉ là ăn vặt, ăn chút gì khi hơi đói, hoặc thích ăn khi đến giờ ăn bữa ăn chính trong ngày. Thường các món này là món đồ ngọt, bánh trái.

Tráng miệng là một món ăn nhẹ dùng khi kết thúc một bữa ăn chính. Món này thường bao gồm các loại thực phẩm ngọt, và có thể là đồ uống như rượu vang, rượu Tây như Cognac hoặc rượu mùi, nhưng có thể bao gồm cà phê, pho mát, hạt quả, hoặc các món chè, rau câu v.v. Ở một số nơi trên thế giới, chẳng hạn như phần lớn vùng Trung và Tây Phi, và hầu hết các vùng của Trung Quốc, không có truyền thống ăn một món tráng miệng để kết thúc bữa ăn. Tuy nhiên ngày nay trong các buổi ăn thường đều có dọn món trái cây và trong nóng ngon để kết thúc các bữa ăn.

Người Trung Quốc hay trong ẩm thực Trung Quốc có ba từ ngữ cho những món ăn nhẹ,móng tráng miệng, món ngọt bánh trái này. Như 小吃 là ăn vặt hay ăn vặt, 甜品,甜點 có nghĩa món ăn nhẹ, 糖果là món ngọt hay trái ngọt là những món mứt, kẹo hay trái cây khô. Tại tỉnh Quảng Đông đại diện của một trong tám trường phái ẩm thực của nền ẩm thực Trung Quốc còn có từ 糖水 “nước ngọt” có nghĩa là các món chè.
Việt Nam là một trong những nước có những món ăn đồ ngọt, bánh trái cho các lúc ăn nhẹ, ăn vặt này. Gồm các thứ chè, bánh các loại, kẹo như bánh ít, bánh ú, bánh tét, bánh chuối nướng, hấp, chuối chiên, chè trôi nước, rau câu v.v.. Nếu tính luôn cả những món khai vị hay những món gọi là món ăn chơi thì gồm cả những món mặn, các bánh mặn, món gỏi.

Những món tráng miệng có thể là những loại kẹo bánh, chẳng hạn như bánh ngọt, tart, bánh quy, gelatin, pastry, kem, pie, pudding, custard và soup ngọt trong nền văn hóa ẩm thực Âu Mỹ. Hoa quả cũng thường được tìm thấy trong các món tráng miệng vì vị ngọt của nó. Một số nền văn hoá đã làm ngọt các loại thực phẩm được ưa thích phổ biến để tạo ra món tráng miệng mới. Những món ăn ngọt của nền ẩm thực Âu Mỹ ngày nay cũng rất quen thuộc và phổ biến ở các nước Châu Á và có những biến tấu hay thay đổi nhỏ thích hợp với khẩu vị người địa phương.

Trong khi đó thì các món ăn nhẹ của nền ẩm thực các nước Châu Á chỉ có những bước nhỏ đi vào các bữa ăn của các nước Âu Mỹ.
Từ "món tráng miệng" được sử dụng phổ biến nhất cho bữa ăn ở Úc, Canada, Ireland, New Zealand và Hoa Kỳ, trong khi "bánh pudding", "ngọt" hoặc thông tục hơn, "afters" cũng được sử dụng ở Vương quốc Anh và một số quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung khác, bao gồm cả Hong Kong và Ấn Độ

Trong giới chuyên môn, có cách giải thích là từ "tráng miệng" có nguồn gốc từ chữ tráng miệng trong tiếng Pháp, có nghĩa là "dọn sạch bàn ăn". Việc sử dụng lần đầu tiên được biết đến là vào năm 1600, trong một cuốn sách hướng dẫn giáo dục sức khỏe có tựa đề Naturall và Chỉ dẫn Y tế nhân tạo, do tác giả William Vaughan viết.

Trong cuốn A History of Dessert (2013), Michael Krondl giải thích nó ám chỉ thực tế là món ăn được phục vụ sau khi bàn đã dọn sạch các món ăn khác. Thuật ngữ này có từ thế kỷ 14 nhưng đạt được ý nghĩa hiện tại vào khoảng đầu thế kỷ 20 khi "service à la française" (đặt nhiều món ăn trên bàn cùng một lúc) được thay thế bằng "service à la russe" (trình bày và dọn các món ăn một bữa ăn theo tuần tự ). Cũng có những giải thích khác, như món tráng miệng được mượn từ tiếng Pháp, nơi nó được sử dụng như một món tráng miệng. Nó có nguồn gốc từ thuật ngữ tráng miệng đối lập với servir cho "chờ" hoặc "phục vụ". Do đó, món tráng miệng là món được tiêu thụ sau khi dọn bàn kết thúc bữa ăn

Hay là "Món tráng miệng" là một thuật ngữ có nguồn gốc từ thời La Mã cổ đại. Ở đây những người giàu có tổ chức các cuộc vui chơi cho ăn của họ vào mỗi buổi tối, sau khi món khai vị và món chính, bàn ăn trông tương đối hỗn loạn. Để dễ dàng công cho những người hầu phục vụ, họ mang cả bàn ăn ra và một chiếc bàn mới, dọn món "secunda mensa" ăn mới, tức là món tráng miệng được mang vào và món tráng miệng được trở thành một phần của phục vụ bữa ăn từ đó.